1. Diễn đàn SEO chất lượng, rao vặt miễn phí có PA, DA cao: chuanmen.edu.vn | okmen.edu.vn
    Dismiss Notice
  2. Hiện tại diễn đàn không cho phép đăng các thông tin về game bài cờ bạc theo yêu cầu của VNNIC mong các bạn thông cảm!
    Dismiss Notice

bệnh viêm gan e lây nhiễm qua những con đường nào



NHÀ TÀI TRỢ CHÍNH:

* diễn đàn SEO miễn phí
* Lắp cửa tự động – Cửa cổng tự động châu âu bảo hành 3 năm
* Công ty lắp đặt Cửa Tự Động, Cổng Tự Động tại thành phố Hồ Chí Minh
* Thi công lắp đặt cổng tự động tại hcm
* Đại lý cửa tự động tại Tp. Hồ Chí Minh nhập khẩu chính hãng

Thảo luận trong 'Rao Vặt Khác' bắt đầu bởi longnguyen993, 2/5/19.

  1. longnguyen993
    Offline

    longnguyen993 admin

    (Website tài trợ bởi: cong tu dong)
    Viêm gan E là bệnh gan do virus viêm gan E (HEV) gây nên. HEV là một chiếc virus chuỗi đơn RNA, dương và không mang vỏ bọc.
    >> Xem thêm: https://viem-gan.gitbook.io/viem-gan-e-lay-qua-duong-nao/
    Virus viêm gan E truyền nhiễm chủ yếu qua nước uống bị ô nhiễm. Viêm gan virus E là 1 bệnh thường tự giới hạn và khỏi trong vòng 4-6 tuần. Thỉnh thoảng, bệnh trở thành dạng kịch phát (suy gan cấp), với thể dẫn tới tử vong.

    một. Sinh học của virus viêm gan E

    Virus viêm gan E là loại herpesvirus mang bộ gen cái RNA, thuộc họ Herpesvỉdae và không với vỏ bọc (nonenveloped). Virus viêm gan E sở hữu con đường kính khoảng từ 27 tới 34 nm và chứa 1 chuối đơn RNA với độ dài xấp xỉ 7.500 base. Bộ gen của HEV là một chuối RNA dương gồm 3 khuông đọc mở (opening reading frames: ORFs). ORF lớn nhất cất 1693 codon, mã hóa cho các protein phi cấu trúc (nonstructural proteins) mang vai trò trong hình thành và nhân lên của HEV. ORF thứ 2 gồm 660 codon, mã hóa cho các protein cấu trúc. ORF thứ ba gồm 123 codon, với khả năng mã hóa cho 1 protein cấu trúc nhưng chức năng của sườn đọc mở này còn chưa được xác định (Hình 1).

    Hình 1. Sơ đồ cấu trúc của bộ gen và dưới bộ gen (subgenomic) của bộ gen RNA của virus viêm gan E: Ba khuông đọc mở ORFs (opening reading frames) được diễn đạt trong những khung; Hel: enzyme helicase; HVR (hypervariable region): vùng rất thay đổi; JR (junction region): vùng nối; MT: enzyme methytransferase; NCR (5′ noncoding region): vùng không mã hoá; ORF (opening reading frames): các khuông đọc mở; PCP: protease cysteine giống papain; RdRp: RNA polymerase phụ thuộc RNA; SL (stem-loop structure): cấu trúc vòng gốc; X (macro domain): miền lớn; Y, Y (domain): miền Dianjun C, 2012 [3].

    Chu kỳ sống của HEV được biểu đạt ở Hình 2. Chu kỳ sống của HEV gồm 9 bước (Chandra V, 2008 [2]):


    Hình hai. Chu kỳ sống của virus viêm gan E gồm 9 bước: bước a: HEV gắn vào bề mặt tế bào qua những protein HSPGs, HSC70 hoặc các thụ thể (receptors) giả định khác rồi xâm nhập vào tế bào duyệt y một thụ thể đặc hiệu chưa biết. Bước b: Virion (hạt virus) HEV đi qua màng và thâm nhập vào các tế bào. Những protein HSP90 và Grp78 sở hữu thể tham dự vào sự vận tải này. Các virion bỏ lớp vỏ và phóng thích bộ gen RNA dương vào bào tương của tế bào. Bước c: bộ gen RNA của virus được tiêu dùng khiến dòng để dịch mã ra các polyprotein phi cấu trúc ORF1 trong bào tương. Bước d: RdRp của virus tổng hợp 1 chuỗi RNA âm với khả năng nhân lên, trung gian, được nhân lên từ bộ gen RNA dương, với vai trò (bước e) như 1 khuôn để sao chép ra 1 bộ gen RNA dương mới, thế hệ con của bộ gen RNA của virus. Bước f: những protein ORF2 và ORF3 protein được dịch mã trong khoảng các đoạn dưới gen của bộ gen RNA dương và (bước g) protein bao bọc (capsid) ORF2 gói bộ gen RNA của virus và tạo nên các virion mới. Bước h: các virion mới thành lập được chuyển vận tới những màng tế bào. Các protein ORF3 tạo điều kiện tiện lợi cho chuyển động của những virion và (bước i) các virion mới ra đời được phóng thích khỏi những tế bào bị nhiễm HEV.

    Viêm gan E sở hữu thể gặp trên toàn thế giới và các kiểu gen (genotype) khác nhau của virus viêm gan E cho thấy sự khác biệt về dịch tễ học. HEV có 4 loại genotype. Tất cả bốn cái genotype của HEV đều mang thể gây bệnh ở người trong khi chỉ genotyp 3 và 4 với khả năng lây bệnh ở động vật (Purdy MA, 2010 [9]). Genotype một là thường thấy ở các nước đang lớn mạnh và với thể gây bùng phát dịch ở cấp cùng đồng, khi mà genotype 3 là thường thấy trong những nước phát triển và không gây ra sự bùng phát dịch.

    2. Tình hình nhiễm HEV trên toàn cầu và ở Việt Nam

    Mỗi năm trên thế giới có khoảng 20 triệu người bị nhiễm bệnh viêm gan E, mang hơn 3 triệu trường hợp có biểu đạt triệu chứng của bệnh viêm gan E và mang 56.600 trường hợp tử vong liên quan đến viêm gan E (Lozano R 2012 [8]). Tỷ lệ hiện nhiễm HEV cao (số người trong dân số sở hữu xét nghiệm HEV dương tính) thường được thấy ở những vùng mang tiêu chuẩn vệ sinh tốt, điều này làm cho tăng nguy cơ truyền nhiễm của virus.Vùng Đông và Nam Châu Á bị ảnh hưởng bởi HEV phổ thông nhất sở hữu tỷ lệ bùng phát viêm gan virus E cao, thường xảy ra trong mùa mưa, lúc nguồn nước bị ô nhiễm bởi phân.

    Việt Nam được xếp vào một trong số những nước sở hữu tỷ lệ nhiễm HEV vào chiếc cao. Thực hành nghiên cứu một bí quyết khi không ở 646 người khỏe mạnh trong cộng đồng, Hau CH và cùng sự năm 1999 [4] thấy rằng tỷ lệ người mang anti-HEV IgG dương tính là 9% (ở nam là 7%, ở nữ là 11%) và tỷ lệ này nâng cao theo tuổi.

    3. Sự lây nhiễm HEV

    Virus viêm gan E lây truyền cốt yếu qua trục đường phân-miệng do ô nhiễm phân của nước uống. Các các con phố lây khác của HEV đã được xác định, bao gồm:

    - Truyền thực từ phẩm do ăn các sản phẩm mang nguồn gốc từ động vật bị nhiễm bệnh

    - Truyền từ các sản phẩm máu bị nhiễm bệnh

    - Truyền mẹ sang con trong giai đoạn thai nghén.

    mặc dù con người được xem là vật chủ thiên nhiên của virus viêm gan E, kháng thể chống lại virus viêm gan E hoặc những virus có liên quan chặt chẽ cũng đã được phát hiện ở các loài linh trưởng và một số loài động vật khác.

    Viêm gan E là một bệnh lây truyền theo các con phố nước, những nguồn nước hoặc thực phẩm bị ô nhiễm với can hệ đến các dợt dịch to. Việc ăn những hải sản có vỏ còn sống hoặc chưa nấu chín cũng đã được xác định là căn do của các trường hợp nhiễm HEV lẻ tẻ trong vùng dịch lưu hành.

    những yếu tố nguy cơ đối sở hữu nhiễm viêm gan E mang can dự đến sự kém vệ sinh trong các khu vực rộng lớn của toàn cầu sở hữu sự phát tán virus viêm gan E mang trong phân.

    4. Chẩn đoán nhiễm HEV

    4.1. Những triệu chứng nhiễm HEV

    giai đoạn ủ bệnh sau khi phơi nhiễm sở hữu virus viêm gan E là khoảng 3-8 tuần, nhàng nhàng là 40 ngày. Những thời kỳ của thời kì lây truyền là lấp lửng.

    Virus viêm gan E gây viêm gan cấp một cách thức rời rạc và thành dịch. Sự nhiễm HEV với triệu chứng thường gặp nhất ở người trẻ tuổi trong khoảng 15-40. Sự nhiễm HEV thường gặp ở con nhỏ, hầu như không mang triệu chứng hoặc bệnh chỉ rất nhẹ, ko mang vàng da nên rất khó chẩn đoán.

    các dấu hiệu và triệu chứng tiêu biểu của viêm gan E gồm:

    - Vàng da (vàng da, vàng mắt, nước giải sẫm màu và phân nhạt màu);

    - Biếng ăn (ăn mất ngon)

    - Gan lớn, ấn đau

    - Đau vùng thượng vị

    - Buồn nôn và nôn

    - Sốt.

    những triệu chứng của viêm gan virus E rất khó phân biệt với quá trình cấp của những viêm gan do virus khác và thường kéo dài trong 1-2 tuần.

    Trong trường hợp thảng hoặc gặp, viêm gan E cấp tính sở hữu thể dẫn đến viêm gan tối cấp (suy gan cấp) và có thể gây tử vong. Viêm gan tối cấp thường hay xảy ra hơn ở phụ nữ trong thờ kỳ mang thai. Đàn bà có thai với nguy cơ cao bị biến chứng sản khoa và tử vong do viêm gan virus E. HEV sở hữu thể gây ra tỷ lệ tử vong 20% ở nữ giới có thai trong quý ba của thai kỳ.

    Viêm gan virus E mạn hi hữu gặp và thường hay gặp ở những người bị kìm hãm miễn dịch (immunosuppressed people), đặc thù là hay gặp ở bệnh nhân được ghép tạng. Sự tái hoạt động của viêm gan virus E mạn cũng chỉ gặp ở những bệnh nhân bị kìm hãm miễn nhiễm. Thỉnh thoảng viêm gan E mạn sở hữu thể gây xơ hóa hoặc xơ gan (Behrendt P, 2014 [1]).

    4.2. Những xét nghiệm chẩn đoán nhiễm HEV

    Vì những triệu chứng của viêm gan virus E cấp rất giống sở hữu triệu chứng của các viêm gan do virus khác nên chẳng thể chỉ dựa vào các triệu chứng lâm sàng để có thể chẩn đoán phân biệt viêm gan E sở hữu các chiếc viêm gan virus khác. Chẩn đoán nhiễm viêm gan E thường dựa vào việc phát hiện kháng thể IgM và IgG đặc hiệu mang virus này trong máu(Hoofnagle JH, 2012 [5]).

    ngoài ra, một xét nghiệm nữa là bức xúc chuỗi polymerase sao chép ngược (reverse transcriptase polymerase: RT-PCR) mang thể được thực hiện để phát hiện RNA của virus viêm gan E (HEV-RNA) trong máu và/ hoặc trong phân. Tuy nhiên, xét nghiệm HEV-RNA chỉ sở hữu thể được thực hành ở những cơ sở xét nghiệm chuyên ngành.

    Viêm gan E nên được nghi ngờ khi bùng phát bệnh viêm gan do nguồn nước bị ô nhiễm, thường xảy ra ở những nước đang lớn mạnh, đặc thù bệnh có thể nặng hơn ở phụ nữ có thai.

    5. Điều trị HEV

    Vì viêm gan E thường tự giới hạn mà không cần điều trị nên nói chung bệnh nhân nhiễm HEV không cần được nhập viện. Bên cạnh đó, việc nhập viện là nhu yếu đối mang các người bị viêm gan virus E tối cấp và việc nhập viện cũng cần được coi xét đối mang nữ giới sở hữu thai với triệu chứng nhiễm HEV.

    Đối sở hữu viêm gan E cấp, đến nay, ko dòng thuốc nào sở hữu khả năng điều trị để khiến cho thay đổi quá trình viêm gan E cấp tính. Những thầy thuốc nên trả lời những liệu pháp tương trợ. Bệnh nhân thường được khuyên nên nghỉ ngơi, ăn uống phần nhiều các chất dinh dưỡng và chất lỏng, tránh uống rượu và cần xin trả lời bác sĩ trước khi tiêu dùng bất cứ cái thuốc với thể gây thương tổn gan, đặc biệt là acetaminophen.

    Đối có viêm gan E mạn, mặc dù ribavirin ko phải là thuốc được quy định để điều trị viêm gan E, một số tác kém chất lượng cho rằng nó mang thể sử dụng để điều trị viêm gan E mạn. Việc dùng liều lượng phải chăng của ribavirin từ ba tháng mang khả năng khiến sạch HEV trong máu ở khoảng hai phần ba số trường hợp viêm gan E mạn. Những cách điều trị khác mang thể gồm peginterferon hoặc kết hợp giữa peginterferon và ribavirin.

    Sự nhiễm HEV mạn thường với can hệ đến liệu pháp kìm hãm miễn dịch, bên cạnh đó, người ta còn biết rất ít về tác động của những thuốc ức chế miễn nhiễm khác nhau trên sự nhiễm HEV mạn. Ở 1 số người được ghép tạng rắn, sự thải sạch vius mang thể đạt được bằng bí quyết khiến cho giảm tạm bợ chừng độ kìm hãm miễn dịch (Ribaverin Kamar N, 2014 [6)

    6. Phòng bệnh

    - phòng ngừa là cách hiệu quả nhất để chống lại nhiễm HEV.


    - Ở mức độ đất nước, nguy cơ lây nhiễm HEV với thể được khiến giảm bằng cách:

    + Duy trì tiêu chuẩn chất lượng cho những nguồn nước công cùng

    + xây dựng hệ thống xử lý thích hợp để mẫu bỏ các chất thải vệ sinh.

    - Ở mức độ cá nhân, nguy cơ nhiễm HEV có thể làm cho giảm bằng cách:

    + Duy trì lề thói vệ sinh như rửa tay mang nước sạch, đặc thù là trước lúc chế biến thức ăn;

    + giảm thiểu nước hoặc nước đá mà chưa biết độ sạch.

    + Tôn trọng những yêu cầu về an toàn thực phẩm của doanh nghiệp Y tế thế giới (WHO).

    - Về vấn đề tiêu dùng vaccin trong phòng chống HEV:

    + Năm 2011, vaccin trước nhất để dự phòng viêm gan virus E đã được đăng ký tại Trung Quốc (Li SW, 2015 [7]). Mặc dầu vaccin này ko sở hữu sẵn trên toàn cầu nhưng nó có khả năng sở hữu thể trở nên có sẵn ở 1 số đất nước khác.

    + nhóm trả lời chiến lược của WHO về miễn nhiễm đã ban hành 1 văn bản về viêm gan E trong năm 2015 đã Đánh giá về gánh nặng của viêm gan E và về độ an toàn, miễn dịch, hiệu quả và giá cả của vaccin viêm gan E để cấp phép. Về việc tiêu dùng vaccin viêm gan E:

    + WHO ghi nhận tầm quan yếu của bệnh viêm gan E như là một vấn đề sức khỏe cùng đồng ở phổ biến nước đang tăng trưởng, đặc trưng là ở những quần thể đặc biệt như nữ giới và các tư nhân sống trong các trại dành cho người tản cư và trong các tình huống bùng phát dịch bệnh.

    + WHO ko đưa ra yêu cầu về việc giới thiệu vaccin để sử dụng thường xuyên ở những chương trình quốc gia trong những cùng đồng, nơi dịch và bệnh viêm gan E chỉ xuất hiện lẻ tẻ. Không những thế, nhà chức trách từng nước có thể quyết định dùng vaccin dựa vào tình hình dịch tễ cụ thể của địa phương.

    + Do còn thiếu thông báo toàn bộ về sự an toàn, khả năng tạo miễn nhiễm và hiệu quả của vaccin HEV, WHO khuyến cáo không nên tiêu dùng vaccin HEV một bí quyết lan tràn (routine use) ở các đội ngũ nhỏ dân cư sau: những con trẻ <16 tuổi, nữ giới mang thai, bệnh nhân bị bệnh gan mạn tính, bệnh nhân đang trong danh sách chờ được ghép tạng và các khách du lịch.

    + WHO cũng cho rằng, ko nên ngăn cản việc dùng vaccin trong các tình huống cụ thể , chẳng hạn trong các huống đặc trưng như nơi mang nguy cơ bùng phát dịch viêm gan E, nơi với các biến chứng hoặc tử vong của viêm gan E là đặc thù cao.

    + bên cạnh đó, để ngăn dự phòng và kiểm soát bệnh viêm gan virus E, WHO còn đề xuất các quốc gia: nâng cao nhận thức, xây dựng chính sách, xúc tiến quan hệ đối tác, huy động các nguồn lực, đề phòng lây nhiễm, thực hành thấp việc gạn lọc, quản lý, trông nom và điều trị những người bị nhiễm HEV.

    Kết luận

    1. Virus viêm gan E (HEV) là một chuối đơn RNA với độ dài xấp xỉ 7,5 kilobase. Viêm gan E là thường tự giới hạn nhưng với thể trở nên viêm gan tối cấp, gây suy gan cấp.

    2. Hàng năm trên toàn cầu mang khoảng 20 triệu người bị nhiễm HEV và gây nên 56.600 ca tử vong.

    3. Virus viêm gan E lây truyền qua các con phố phân-miệng, chính yếu qua nguồn nước bị ô nhiễm.

    4. Vì các triệu chứng của viêm gan virus E cấp rất giống có triệu chứng của các viêm gan do virus khác nên việc chẩn đoán viêm gan virus E cần dựa vào HEV IgM, HEV IgG và HEV RNA.

    5. Về điều trị: viêm gan E là thường tự dừng và khỏi trong vòng 4-6 tuần nhưng với thể trở nên viêm gan tối cấp, gây suy gan cấp. Những thuốc điều trị viêm gan E mạn có thể được xem xét là ribavirin, peginterferon hoặc kết hợp peginterferon và ribavirin.

    6. Dự phòng là cách thức hiệu quả nhất để chống lại nhiễm HEV.
     

    Nguồn: batdongsan24h.edu.vn

Chia sẻ trang này